quy trình gây tê tủy sống mổ lấy thai
Đà Nẵng để mổ sinh. Sau khi gây tê tủy sống, mổ lấy thai cho bệnh nhân, đến cuối ca mổ thì sản phụ VTNS bất ngờ có biểu hiện duỗi thẳng hai chi dưới từng cơn, mạch tăng nhanh nên được chuyển sang BV Phụ sản-Nhi Đà Nẵng, sau đó tử vong.
Thoát vị đĩa đệm: Thoát vị đĩa đệm là nguyên nhân gây tê tay chân phổ biến. Đây là ệnh lý thường gặp ở đĩa đệm cột sống cổ và thắt lưng. Khi đĩa đệm tràn ra khỏi bao xơ đĩa đệm sẽ chèn ép dây thần kinh cột sống gây tê bì cánh tay cùng 2 chân, hạn chế vận
Các tuyến cận giáp có thể bị mất chức năng do phẫu thuật vô tình lấy đi tuyến cận giáp hoặc tổn thương do tia xạ trong quá trình xạ trị, dẫn tới thiếu hụt calcium. Triệu chứng của suy tuyến cận giáp bao gồm: tê quanh môi, tê tay chân, chuột rút.
thường. Phẫu thuật này được thực hiện sau khi gây tê ngoài màng cứng/tủy sống. hoặc trong một số trường hợp hiếm hoi là gây mê. sẽ. sinh tự nhiên thành công. Cứ 100 thai phụ thì có gần 10 người. phải sinh mổ sau khi quá trình chuyển. dạ bắt đầu. 6. Sinh thường. hay
matriks x berordo 2x2 yang memenuhi persamaan. Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Đức Thông - Bác sĩ Gây mê hồi sức - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. So với gây mê thì gây tê là biện pháp giảm đau khi sinh mang lại nhiều ưu điểm , gây tê tủy sống là kỹ thuật giảm đau được thực hiện trước khi tiến hành mổ lấy thai nhằm giúp sản phụ vượt cạn dễ dàng, không cảm thấy đau đớn. Trong bài viết này, đưa ra một số đánh giá cập nhật hiện nay về phòng ngừa và xử trí hạ huyết áp sau tê tủy sống mổ lấy thai. Gây tê tủy sống hiện là phương pháp vô cảm phổ biến trong mổ lấy thai. Hạ huyết áp ở mẹ là biến chứng thường gặp sau tê tủy sống gây ra hậu quả bất lợi cho mẹ và thai. Phòng ngừa và điều trị hạ huyết áp sau tê tủy sống vẫn liên tục được nghiên cứu. 2. Biến chứng gây tê tủy sống Biến chứng về thần kinhLiệt, tổn thương thần kinh Đây là biến chứng rất hiếm gặp. Có nhiều nguyên nhân gây ra tổn thương thần kinh sau gây tê như do kim gây tê/catheter, do chèn ép, máu tụ ngoài màng cứng, thiếu máu nuôi thần kinh, hay độc tính của thuốc tê lên dây thần kinh. Thông thường bên cạnh mất cảm giác đau người bệnh cũng sẽ liệt vận động vùng được gây tê. Tuy nhiên, vận động và cảm giác sẽ hồi phục sau khi hết tác dụng của thuốc tê khoảng 4 – 6 giờ. Nếu các triệu chứng này kéo dài cần báo ngay cho nhân viên y chứng chùm đuôi ngựa Thường có triệu chứng đau thắt lưng, tê quanh hậu môn và tiêu tiểu mất tự đầu Đây là triệu chứng thường gặp sau gây tê tủy sống, thông thường triệu chứng sẽ tự khỏi trong vòng 7 ngày. Nếu triệu chứng gây khó chịu đáng kể có thể sử dụng các thuốc giảm đau. Trong trường hợp đau đầu không tự khỏi trong 7 ngày hoặc đau đầu dữ dội, cần đến ngay các cơ sở y tế để được hỗ trợ. Để ngăn ngừa đau đầu sau tê tủy sống, người bệnh cần nằm yên nghỉ ngơi trên giường trong 24 giờ sau gây tê và không ngóc đầu dậy. Hội chứng chùm đuôi ngựa là biến chứng về thần kinh có thể gặp sau khi gây tê tủy sống Biến chứng về tim mạchHạ huyết áp hạ huyết áp sau gây tê tủy sống là triệu chứng thường gặp khi gây tê tủy sống, triệu chứng thường gặp đầu tiên là buồn nôn, nôn. Khi cảm thấy dấu hiệu này cần báo ngay cho nhân viên y tế tim chậm Tùy thuộc vào mức độ, người bệnh sẽ được xử trí bằng các thuốc thích Biến chứng về hô hấpKhó thở và ngừng thở là biến chứng có thể gặp khi gây tê. Người bệnh sẽ được thở oxy trước, trong, sau thủ thuật và các biện pháp hỗ trợ hô hấp khác nếu Nhiễm trùngTiêm thuốc tê vào cột sống có thể gây viêm màng não mủ hay áp xe ngoài màng cứng. Tuy nhiên, biến chứng này hầu như không xảy ra do được phòng ngừa rất tốt bằng các biện pháp vô trùng trong lúc thực hiện thủ Đau lưngSau khi thực hiện gây tê trục thần kinh trung ương, một số người bệnh cảm thấy đau lưng ở vị trí chích kim. Triệu chứng này có thể cải thiện bằng cách sử dụng kim nhỏ nhất có thể chọn kim 29G, tránh chọc kim nhiều lần bằng cách siêu âm xác định khe đốt sống trước khi gây tê, có thể sử dụng các thuốc giảm Bí tiểuThuốc tê có thể ức chế các rễ thần kinh điều hòa hoạt động bài tiết nước tiểu. Do đó, người bệnh thường cảm thấy bí tiểu sau mổ. Triệu chứng này có thể giải quyết bằng cách mát xa vùng bụng dưới, chườm nóng vùng bóng đái; nếu không thể tiểu được thì đặt thông tiểu ống dẫn nước tiểu để tháo nước tiểu ra. Sau khi hết tác dụng của thuốc tê, bí tiểu có thể cải NgứaCó thể gặp sau gây tê tủy sống nếu bác sĩ pha thêm thuốc giảm đau họ morphin vào thuốc tê để làm tăng thời gian tác dụng. Dấu hiệu này thường tự cải thiện. Tình trạng bí tiểu thường gặp sau khi mổ lấy thai 3. Xử trí và phòng tránh Truyền DịchMặc dù sử dụng phác đồ truyền dịch được xem như một phương pháp cổ điển trong thực hành gây tê sản khoa, nhưng những bằng chứng gần đây đã đặt nghi vấn cho giá trị này. Một số tác giả đã báo cáo rằng gây tê tủy sống trong dân số sản khoa đi kèm tăng hơn là giảm cung lượng tim. Sự phát hiện này làm cho truyền dịch để phòng ngừa hạ huyết áp sau tê tủy sống không như là giả thuyết. Hơn thế nữa, việc truyền dịch ở sản phụ được báo cáo là phá vỡ glycocalyx. Glycocalyx là một lớp giàu carbohydrate lót trong nội mô đóng vai trò duy trì tính nguyên vẹn của nội mô. Sự phá hủy glycocalyx nội mô được báo cáo là nguyên nhân gây ra thất bại để truyền dịch phòng ngừa hạ huyết áp sau tê tủy sốngTruyền dịch trước mặc dù truyền dịch tinh thể trước hơn hẳn chế độ không truyền, nhưng tỉ lệ hạ huyết áp với tất cả chế độ truyền dịch trước vẫn cao. Theo đánh giá mới nhất từ cơ sở dữ liệu Cochrane, truyền trước dung dịch keo tốt hơn so với truyền dịch tinh thể ; tuy nhiên , các nghiên cứu có kiểm soát ngẫu nhiên so sánh dung dịch keo và dịch tinh thể truyền trước cho thấy bằng chứng mâu thuẫn dịch cùng lúc giải thích hiện được chấp nhận nhất cho giá trị giới hạn dịch truyền trước là phân bố nhanh dịch trong khoang ngoài mạch. Đây là nguyên nhân của sự phát triển quan niệm truyền dịch cùng lúc mà dịch được cho truyền nhanh đồng thời với tê tủy truyền dịch nhanh cùng lúc, sự tái phân bố dịch có thể hạn chế bởi dãn mạch đồng hết các báo cáo cho thấy truyền dịch cùng lúc hơn hẳn hoặc ít nhất giống như truyền dịch trước khi so sánh hai protocol cùng dùng chung một loại dịch. Dịch tinh thể truyền cùng lúc hơn hẳn dịch tinh thể truyền trước và tương đương dịch keo truyền trước. Dịch keo truyền cùng lúc không hơn dịch keo truyền so sánh các loại dịch khác nhau, dịch tinh thể truyền cùng lúc tương tự dịch keo truyền cùng lúc. Tuy vậy, thể tích dịch cần thiết với dịch keo ít hơn thể tích dịch tinh thể. Thuốc co mạch có thể làm giảm hạ huyết áp sau tê tủy hơn truyền dịch Sử dụng thuốc co mạchLựa chọn thuốc co mạch Sử dụng thuốc co mạch được chấp nhận rộng rãi và là phương pháp có hiệu quả để giảm hạ huyết áp sau tê tủy hơn truyền dịch. Phenylephrine là thuốc co mạch thích hợp trong phòng và điều trị bởi vì khởi tác dụng nhanh, thai nhi ít bị nhiễm toan, ít qua nhau, ít nôn và buồn nôn ở mẹ mặc dù có tỉ lệ hạ huyết áp tương tự sau gây tê tủy. Norepinephrine gần đây được nghiên cứu như là một sự thay thế cho Phenylephrine do ít ức chế tim mạch với kết quả đầy triển vọng; tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu thêm để bảo đảm đạt được liều tối ưu. Ngoài các đặc tính chống nôn, ondansetron được báo cáo là thuốc dự phòng từ hạ huyết áp sau tê tủy với tác dụng phụ tối thiểu. Mặc dù ít được khuyến cáo hơn, ephedrine vẫn có vai trò trong một số trường hợpNhịp tim chậm Nhịp tim chậm ban đầu hay hạ huyết áp sau gây tê tủy liên quan đến nhịp tim chậm Tác dụng xấu của phenylephrine lên cung lượng tim của mẹ làm cho ephedrine là thuốc được lựa chọn trong trường hợp liên quan đến nhịp tim chậmBệnh nhân với tổn thương chức năng tim Mặc dù không có nghiên cứu so sánh cả hai thuốc trong dân số này, nhưng tác dụng xấu của phenylephrine trên cung lượng tim vẫn được cân nhắc giới hạn sử dụng thuốc trên những bệnh nhân nàySuy giảm chức năng tử cung bánh nhau Phenylephrine làm giảm cung lượng tim của mẹ và tăng sức cản mạch máu ngoại vi, và do đó giảm tưới máu tử cung nhau. Chỉ có một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát ngẫu nhiên được tiến hành trên những sản phụ có thai suy , không có sự khác biệt giữa ephedrine và phenylephrine đối với điểm số Apgar và pH máu cuống rốn. Trước mổ lấy thai cho sản phụ nằm nghiêng trái có thể giúp giảm chèn ép động mạch chủ Tư thế sản phụCho sản phụ nằm nghiêng trái hoặc kê 1 gối ở hông phải giúp giảm chèn ép động mạch chủ bụng, nhằm hạn chế tụt huyết lớn tư thế có một trong hai mục tiêu như sauGiảm chèn ép động mạch chủTăng lượng máu tĩnh mạch quay vềBệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện áp dụng nghiêm ngặt các tiêu chuẩn thực hành gây mê phẫu thuật an toàn theo các hướng dẫn quốc tế. Với một đội ngũ bác sĩ và điều dưỡng gây mê giàu kinh nghiệm, cùng với các trang thiết bị hiện đại như máy dò thần kinh, máy siêu âm, hệ thống kiểm soát đường thở khó của Karl Storz, hệ thống theo dõi gây mê toàn diện AoA Adequate of Anesthesia của GE bao gồm theo dõi độ mê, độ đau và độ giãn cơ sẽ mang lại chất lượng cao và an toàn, giúp bệnh nhân gây mê vừa đủ, không thức tỉnh, không tồn dư thuốc giãn cơ sau mổ. Hệ thống Y tế Vinmec cũng tự hào là bệnh viện đầu tiên tại Việt Nam ký kết với Hiệp hội Gây mê Thế giới WFSA hướng đến mục tiêu trở thành bệnh viện an toàn nhất về gây mê phẫu tại Đông Nam có nhu cầu tư vấn và thăm khám tại các Bệnh viện Vinmec thuộc hệ thống Y tế trên toàn quốc, Quý khách vui lòng đặt lịch trên website để được phục vụ. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Một số biến chứng, tác dụng phụ của gây tê tủy sống trong phẫu thuật Gây tê tủy sống trong phẫu thuật Chỉ định và chống chỉ định Nguyên nhân gây đau đầu sau gây tê tủy sống
Bài viết bởi Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Thị Hoài Nam - Trưởng Đơn nguyên Giảm đau - Khoa Gây mê phẫu thuật - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park Tình trạng run lạnh có thể gặp ở các sản phụ sau khi thực hiện gây tê trục thần kinh mổ lấy thai. Đây là một trình trạng phổ biến nhưng thường không được điều trị đúng cách gây ra nhiều biến chứng về sau. Do đó, phòng ngừa và điều trị run lạnh có ý nghĩa lớn đối với sức khỏe của các sản phụ sau sinh. 1. Run lạnh có thể gặp ở sản phụ sau khi mổ lấy thai Gây tê trục thần kinh bao gồm gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng hay phối hợp tủy sống- ngoài màng cứng thường được dùng trong mổ lấy thai, do thuốc ít tác dụng nhất lên thai nhi. Tuy nhiên, gây tê trục thường liên quan đến run lạnh chu phẫu và có thể dẫn đến sự khó chịu hay lo lắng quá mức của sản phụ. Đây là phiền nạn phổ biến trên lâm sàng nhưng thường không được điều trị đúng mức. Nó có thể làm tăng mức tiêu thụ oxy vượt trội mà có thể là thảm họa cho những sản phụ có bệnh tim thiếu máu cục đó, phòng ngừa và điều trị run lạnh có thể có ý nghĩa lớn đối với sản phụ. Trong một nghiên cứu trước đây, ước tính tỷ lệ trung bình run lạnh liên quan đến gây tê là 55%. Cơ chế của run lạnh do gây tê trục đến nay vẫn chưa rõ. Các yếu tố liên quan bao gồmMất sự co mạch điều hòa nhiệt độ dưới mức bị phong bế dẫn đến tăng mất nhiệt từ bề mặt cơ tái phân bố nhiệt của cơ thể từ trung tâm đến ngoại biênĐiều hòa nhiệt thay đổi do ngưỡng tiết mồ hôi tăng và giảm co lạnh chu phẫu có thể cản trở việc theo dõi điện tim, huyết áp và độ bão hòa oxy và làm tăng tiêu thụ oxy đáng kể gây bất lợi ở sản phụ có dự trữ tim phổi thấp. Theo đó, dùng thuốc vẫn là cách phổ biến nhất để phòng ngừa và điều trị run lạnh. Vậy nên hiểu như thế nào cho đúng về cách dùng thuốc trong điều trị run lạnh trong mổ lấy thai dưới gây tê trục thần kinh? Tình trạng run lạnh sản phụ sau khi mổ lấy thai tiềm ẩn nhiều rủi ro 2. Các thuốc dùng trong điều trị run lạnh trong mổ lấy thai dưới gây tê trục thần kinh Mười tám thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng được trích xuất từ PubMed, EMBASE và Thư viện Cochrane cho thấy hiệu quả của thuốc Dexmedetomidine, Fentanyl, Sufetanil, Meperidine đường tủy sống; Ketamine, Tramadol, MgSO4, Ondansetron tĩnh mạch trong điều trị run lạnh trong mổ lấy thai dưới gây tê trục thần kinh. Cụ thểDexmedetomidine Dexmedetomidine 5mcg đường tủy sống cho thấy làm giảm đáng kể tỷ lệ và mức độ run lạnh trong mổ lấy thai dưới gây tê mà không có tác dụng phụ đáng kể. Liều 2,5mcg không làm giảm run sufentanil Một phác đồ khác cũng được chấp nhận gồm 20-25mcg Fentanyl tê tủy sống, 25mcg Fentanyl tê ngoài màng cứng, 5mcg Sufentanil tê tủy sống cũng làm giảm tỉ lệ và mức độ run Với liều 0,5mg/kg hoặc 0,25mg/kg tĩnh mạch đều làm giảm đáng kể tỷ lệ và mức độ run lạnh trong mổ lấy thai dưới gây tê. Tuy nhiên, tác dụng phụ của Ketamine như rung giật nhãn cầu, ảo giác thường gặp ở liều 0,5mg/kg hơn liều 0,25mg/ Các nghiên cứu cho thấy Meperidine đường tủy sống liều 0,2mg/kg làm giảm đáng kể tỷ lệ và mức độ run lạnh mà không có tác dụng phụ. Với liều cao hơn hiệu quả chống run lạnh tốt hơn nhưng gặp tác dụng phụ nhiều hơn như ngứa, buồn nôn, nôn. Khi so sánh Meperidine với Morphine tủy sống trong mổ lấy thai, phối hợp Meperidine với Bupivacaine ưu trương trong tê tủy sống hiệu quả chống run lạnh tốt hơn khi phối hợp với Morphine. Việc tăng liều Morphine từ 0,1mg lên 0,2mg không làm tăng hiệu quả chống run lạnh. Một số loại thuốc được dùng trong điều trị run lạnh trong mổ lấy thai dưới gây tê trục thần kinh MgSO4 Phối hợp MgSO4 với thuốc tê tủy sống làm giảm tỉ lệ và mức độ run lạnh trong vòng 10 đến 20 phút sau gây tê. Tuy nhiên, tác dụng này không kéo dài, hơn nữa còn làm tăng đáng kể mức độ run lạnh sau Một nghiên cứu cho thấy Ondansetron 8mg tiêm tĩnh mạch ngay sau khi gây tê làm giảm tỉ lệ và mức độ run lạnh trong khi nghiên cứu khác cho thấy thuốc không có hiệu Tramadol tĩnh mạch dùng để điều trị run lạnh mức độ 3 hoặc 4 cho sản phụ. Tramadol và Meperidine tĩnh mạch đều hiệu quả để điều trị run lạnh sau gây tê ngoài màng cứng và Tramadol ít gây buồn ngủ hơn so với Meperidine. Hiệu quả của Tramadol liều 0,5mg/kg và 0,25mg/kg đều giống nhau và không khác biệt về tác dụng phụ. Bệnh viện Quốc tế Đa khoa Vinmec là một địa chỉ an toàn, uy tín để mẹ bầu thực hiện sinh nở Hiện tại, vẫn chưa có phương pháp nào được coi là tiêu chuẩn vàng trong điều trị run lạnh trong mổ lấy thai dưới gây tê trục thần kinh. Kết quả các nghiên cứu tổng hợp được cho thấy sử dụng đúng thuốc Dexmedetomidine, Fentanyl, Sufentanil, Ketamine, Meperidine, Tramadol and Mgso4 có thể làm giảm tỉ lệ và mức độ run lạnh trong mổ lấy thai dưới tác dụng gây tê trong khi các thử nghiệm hiệu quả của Ondansetron tĩnh mạch chưa có kết luận. Ketamine tĩnh mạch và Meperidine đường tủy sống có liên quan đến việc gia tăng các tác dụng phụ khi tăng liều nên có thể không phù hợp khi dùng cho sản đảm bảo an toàn, tránh được các tác dụng phụ sau khi thực hiện gây tê trục thần kinh mổ lấy thai thì các sản phụ nên chọn các cơ sở, bệnh viện uy tín, đảm bảo chuyên môn về gây mê phẫu viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là bệnh viện đa khoa đạt tiêu chuẩn quốc tế với cơ sở vật chất hiện đại, đội ngũ bác sĩ chuyên khoa, điều dưỡng giàu kinh nghiệm, có nhiều năm công tác trong gây mê phẫu thuật. Trong quá trình thực hiện, đội ngũ y bác sĩ luôn tuân thủ các phác đồ gây mê, gây tê, các hướng dẫn an toàn bảng kiểm gây mê đối với 100% ca phẫu thuật nhằm giảm thiểu tối đa tác dụng không mong muốn sau khi phẫu thuật mổ lấy thai. Đặc biệt, với dịch vụ chăm sóc sau sinh toàn diện, các sản phụ sẽ phục hồi sức khỏe nhanh chóng và sớm được xuất viện trở về nhà. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Tài liệu tham khảoLược trích theo Jie Liu, Yong Wang, Wuhua MA “Shivering prevention and treatment during cesarean delivery under neuraxial anesthesia a systematic review”, Minerva Anestesiologica 2018 December;84121393-405 Doi XEM THÊM Tai biến gây mê Vì sao bệnh nhân hạ thân nhiệt trong mổ? Biến chứng hô hấp và tuần hoàn trong gây mê Gây mê một phần với gây mê toàn thân khác nhau thế nào?
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa II Phạm Thiều Trung - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc, Bác sĩ chuyên khoa I Trần Thị Ánh Hiền - Khoa Gây mê phẫu thuật - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park. Gây tê tủy sống hay còn gọi là gây tê dưới màng cứng là phương pháp vô cảm hiệu quả, chắc chắn cao, tương đối đơn giản, ít gây tai biến và biến chứng nhưng cần tôn trọng các nguyên tắc căn bản như vô trùng, thuốc có độ tinh khiết tuyệt đối, kim nhỏ và nhất là chăm sóc bệnh nhân chu đáo. Các câu hỏi thường gặp ở bệnh nhân như gây tê tủy sống có biến chứng gì hay gây tê tủy sống có gây đau lưng không sẽ được giải đáp dưới đây. Gây tê tủy sống gọi chính xác là gây tê khoang dưới màng nhện là phương pháp gây tê vùng được thực hiện bằng cách đưa lượng thuốc tê thích hợp vào khoang dưới màng nhện khiến thuốc tê hòa vào dịch não tủy. Thuốc tê ban đầu có nồng độ lớn nhưng khi hòa chung với dịch não tủy thì nồng độ nhỏ hơn so với ban đầu và tác dụng vào các rễ thần kinh gây nên mất cảm giác và liệt vận động. Đây là phương pháp vô cảm đặc biệt trong lĩnh vực gây mê hồi sức nên chỉ những người có nhiều kinh nghiệm và nắm vững nguyên tắc mới nên thực hiện. Gây tê tủy sống được thực hiện tại cơ sở y tế uy tín 2. Cơ chế tác dụng của thuốc tê trong gây tê tủy sống Khi chích thuốc tê vào dưới màng cứng thì thuốc tê sẽ ngấm vào các rễ thần kinh tủy sống và các nhánh nối giao cảm ở phía trên và dưới vùng chọc kim, ở đoạn từ tủy đi ra ngoài, chui qua khoang dưới màng cứng có tác dụng cắt đứt đường dẫn truyền xung động thần kinh làm xuất hiện nhanh chóng tình trạng liệt các dây thần kinh cảm giác, vận động và hệ thần kinh giao cảm chi phối cả hai chi dưới, thành bụng và các cơ quan trong ổ số yếu tố ảnh hưởng đến tính lan rộng của thuốc sự vô cảm gồm cóVị trí tiêmTư thế người bệnhLiều lượng thuốc tiêmThể tích thuốc tiêmTốc độ và lực bơm thuốc têThời gian tác dụng phụ thuộc vào từng loại thuốc têTrọng lượng riêng của thuốc tê Vị trí gây tê ảnh hưởng đến cơ chế tác dụng của thuốc tê 3. Gây tê tủy sống thực hiện như thế nào? Trước khi gây tê tủy sống cần khám toàn diện bệnh nhân để xem xét đánh giá tình trạng bệnh nhân và giải thích cho bệnh nhân hiểu rõ. Đêm trước khi mổ cho bệnh nhân thuốc an thế chọc dò tủy sống gồmTư thế ngồi Dễ làm vì liên đốt sống dãn rộng nhưng không dùng khi tình trạng huyết động không ổn thế nằm sấp Khó chọc dò nhất nên chỉ dùng khi mổ ở tư thế nằm sấp và bệnh nhân không thể nằm tư thế thế nằm nghiêng Thường dùng nhất và có thể áp dụng với tất cả phương pháp gây tê tủy sống. Bệnh nhân nằm nghiêng, cong lưng tôm, cột sống song song với bàn mổ, hai vai và hai gai chậu thẳng góc với mặt bàn mổ, đùi gập trước bụng, đầu cổ cong về chọc dò tủy sống có thể là đường giữa, đường bên hoặc đường bên thắt lưng cùng. Vị trí chọc dò là đường ngang hai mào chậu đi qua giữa đốt thắt lưng 4-5 từ đó tính lên hoặc xuống tùy vào yêu cầu nơi chọc dò. Quy trình chọc dò như sau Gây tê tủy sống dưới sự hỗ trợ của máy siêu âm Dùng thuốc tê như lidocaine 1% 1-2 ml gây tê tại chỗ trong da hoặc dưới kim vào kẽ giữa hai gai sau đốt sống, đẩy kim đi nhích lần từ ngoài vào trong sâu. Đẩy kim từ từ vào trong, để mặt vát của kim nằm ngang, khi vào độ sâu 4-5 cm mũi kim sẽ chạm vào mô đặc, chắc của dây chằng vàng, đâm sâu thêm 4-5 mm nữa mũi kim sẽ đâm thủng màng cứng và vào khoang dưới màng này sẽ có cảm giác không còn sức cản nữa, rút cây thông nòng thấy dịch não tủy trong vắt như nước thấy dịch não tủy chảy ra không lẫn máu, gắn ống chích có sẵn thuốc tê vào chốt nhẹ nhàng từ từ khoảng 1-2 ml trong 2-3 muốn mức tê lên cao có thể làm động tác dùng bơm, rút ra một ít dịch não tủy để hòa lẫn dung dịch thuốc tê rồi tiếp tục bơm vào nhắc lại vài khi bơm thuốc tê xong, rút kim chọc dò tủy sống ra, sát trùng chỗ chọc kim, dán băng vô trùng và đặt bệnh nhân theo yêu cầu của cuộc phẫu dõi các dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân một cách chặt chẽ, liên tục và xử trí những tai biến có thể xảy ra và theo dõi mức tê cao thấp. 4. Những tai biến của gây tê tủy sống Gây tê tủy sống có thể gây ra những tai biến, biến chứng nhưNhức đầu Là biến chứng thường gặp sau gây tê tủy sống do dịch não tủy thoát ra ngoài theo lỗ chọc dò. Nhức đầu thay đổi theo tư thế, đau vùng đỉnh và hai bên thái dương, nằm xuống hay để đầu thấp sẽ đỡ đau. Nhức đầu sẽ tự khỏi sau trung bình vài ngày, để giảm thiểu biến chứng cần dùng kim chọc dò càng nhỏ càng tốt thuốcĐau lưng Không nhiều hơn sau khi gây mê nếu chọc dò tủy sống đường giữa chính xác, không gây tổn thương những tổ chức cạnh cột huyết áp Thường gặp sau gây tê tủy sống 20-30 phút do liệt thần kinh giao cảm gây giãn mạch vùng tê, giữ máu ở ngoại biên. Giảm huyết áp nhẹ khi gây tê tủy sống không cần can thiệp nhưng nếu nhiều cần truyền dịch nhanh, để chân cao, cho thở dưỡng khí và dùng atropin tĩnh mạch nếu kèm mạch hấp giảm Thực tế gây tê tủy sống không ảnh hưởng tới chức năng hô hấp, hô hấp chỉ giảm khi mức tê quá cao làm liệt một phần cơ liên sườn hay cơ hoành gặp ở ảnh hưởng của nhóm tiền mê thuộc nhóm morphinique như morphine, dolosal,...Nôn mửa Do gây tê tủy sống làm giảm huyết áp gây thiếu dưỡng khí tiểu Gặp ở sau mổ do hệ thống thần kinh điều khiển đi tiểu chưa được phục hồi trọn vẹn thường biến mất sau vài ngày. Người bệnh xuất hiện triệu chứng đau lưng Nhiễm trùng Thường do không đảm bảo nguyên tắc, dụng cụ vô chứng thần kinh rất hiếm gặp như liệt dây thần kinh VI, tổn thương chùm đuôi ngựa hoặc viêm dày dính màng não tủy, viêm rễ thần nghiệp chương trình đào tạo Bác sĩ Nội trú, Bác sĩ Trần Thị Ánh Hiền đã trải qua nhiều môi trường làm việc khác nhau như Bệnh viện Bình Dân, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Bệnh viện Pháp Việt trước khi về làm việc tại Đơn nguyên Gây mê Giảm đau – Khoa Gây mê phẫu thuật - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central tìm hiểu thêm, quý Khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY Video đề xuất Kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ESP Giảm đau trọn vẹn, không cần morphin XEM THÊM Chọc dò tủy sống có đau và có ảnh hưởng gì không? Chọc hút tủy xương trong trường hợp nào? Chọc dịch tủy sống chẩn đoán viêm màng não
Gây tê tủy sống là kỹ thuật phổ biến nhất cho mổ lấy thai vì đơn giản, chất lượng phong bế vận động và cảm giác tốt, độ tin cậy cao. Ngược lại với gây tê ngoài màng cứng, tổng liều thuốc tê thấp hơn; nguy cơ không đáng kể cho ngộ độc thuốc tê toàn thân và sự chuyển vận thuốc qua thai nhi rất nhỏ. Các kỹ thuật tê tủy sống nên thực hiện ở khe giữa khoang đốt sống L3-L4 hoặc dưới mức này để tránh chấn thương tủy sống; mặc dù tủy sống kết thúc tại L1 ở hầu hết người lớn, nhưng một thiểu số nhỏ có thể kéo dài đến giữa L2-L3. Ngoài ra, bác sĩ gây mê thường xác định nhầm vị trí đâm kim trên khoang đốt sống, và kim thường được đâm vào ở vị trí cao hơn dự định. Thuốc tê Bupivacaine liều thường dùng giữa 10 đến 15 mg kết hợp với opioid. Liều hiệu quả đối với bupivacaine hyperbaric ở 95% bệnh nhân ED95 là 13 mg khi dùng kết hợp với fentanyl và nghiên cứu về Hyperbaric bupivacaine 12 đến 15 mg đã xác định tuổi của bệnh nhân, chiều cao, trọng lượng, khối lượng cơ thể, và chiều dài cột sống không ảnh hưởng đến kết quả phong bế trục thần kinh. Liều cao hơn ví dụ 15 mg có thời gian tác dụng dài hơn, nhưng phong bế cảm giác cao đến đốt sống cổ, và tỷ lệ tụt huyết áp cao hơn. Ropivacaine tiềm lực kém hơn bupivacaine khoảng 40 lần sau tê tủy sống ở người không mang thai. Trong một nghiên cứu tìm liều lượng ở 72 sản phụ mổ lấy thai chủ động chọn ngẫu nhiên với kỹ thuật tê CSEkết hợp gây tê tuỷ sống- ngoài màng cứng với plain ropivacaine 10, 15, 20, hoặc 25 mg. Liều ED50 và ED95 được xác định là mg và mg. Sau đó, các nghiên cứu tương tự cũng chứng minh rằng Hyperbaric ropivacaine tủy sống 25 mg phong bế và phục hồi nhanh hơn, ít đòi hỏi bổ sung tê ngoài màng cứng hơn so với cùng một liều ropivacaine plain ở phụ nữ mổ lấy thai với tê tủy sống. Levobupivacaine tủy sống có thể không hiệu quả như bupivacaine. Một thử nghiệm chọn ngẫu nhiên 90 sản phụ tham gia nhận bupivacaine 8 mg, levobupivacaine 8 mg hoặc ropivacaine 12 mg tất cả với sufentanil 2,5 µg; gây tê hiệu quả đạt 97%, 80% và 87% bệnh gian phong bế vận và cảm giác của levobupivacaine và ropivacaine ngắn hơn so với bupivacaine. Hiện Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ FDA không chấp thuận ropivacaine hoặc levobupivacaine cho tê tủy sống. Do đó, tại Hoa Kỳ, bupivacaine vẫn là thuốc chính cho gây tê tủy sống mổ lấy thai Thuốc bổ trợ Thêm opioids tan trong lipid ví dụ fentanyl, sufentanil vào thuốc tê làm nâng cao chất lượng tê trong phẫu thuật, giảm đau kéo dài sau phẫu thuật, và giảm liều thuốc tê, do đó, giảm tác dụng phụ của thuốc tê như giảm tụt huyết áp, buồn nôn và ói mửa. Sự kết hợp này còn giúp cho ít bị kích thích khi kéo nội tạng trong lúc phẫu thuật, góp phần làm giảm tỷ lệ buồn nôn, nôn và bổ sung thêm thuốc giảm đau trong phẫu thuật so với không dùng fentanyl hoặc sufentanil. Thêm morphin opioid hòa tan trong nước có thể giảm đau sau phẫu thuật lên đến 36 h. Epinephrine 0,1 đến 0,2 mg thường được thêm vào trong thực hành lâm sàng, làm tăng thêm 15% thời gian phong bế và cải thiện chất lượng giảm đau trong phẫu thuật, trong khi thời gian phục hồi phong bế tăng. Clonidine cải thiện giảm đau trong phẫu thuật, giảm lạnh run và tăng cảm giác đau, nhưng có liên quan đến hạ huyết áp và an thần. Tụt huyết áp Tụt huyết áp là kết quả thường gặp của gây tê trục thần kinh, nếu nặng và kéo dài, có thể dẫn đến suy yếu tưới máu tử cung và dẫn đến thiếu oxy thai nhi, nhiễm toan, và ức chế hoặc chấn thương sơ sinh. Tụt huyết áp nặng ở mẹ cũng có thể có kết quả bất lợi, bao gồm thay đổi ý thức, hít sặc, ngưng thở và ngừng tim. Mặc dù không được chấp nhận phổ biến, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu chấp nhận định nghĩa sau đây cho hạ huyết áp của mẹ 1 giảm huyết áp tâm thu hơn 20% đến 30% từ các phép đo cơ bản hoặc 2 huyết áp tâm thu thấp hơn 100 mm Hg. Yếu tố nguy cơ cho tụt huyết áp Một số nghiên cứu đã cố gắng xác định phụ nữ mang thai tăng nguy cơ phát triển hạ huyết áp. Đáng quan tâm là sản phụ bị tiền sản giật nặng hoặc khi chuyển dạ được thiết lập dường như ít gặp phải tình trạng tụt huyết áp sau gây tê tủy sống mổ lấy thai Các nghiên cứu phát hiện ra rằng những bệnh nhân có nhịp tim cơ bản cao hơn 90l/phút có 83% cơ hội giá trị dự đoán dương tụt hạ huyết áp rõ rệt giảm huyết áp lớn hơn 30%, trong khi bệnh nhân có nhịp tim cơ bản thấp hơn 90 l/phút có 75% cơ hội giá trị dự đoán âm không trải qua tụt huyết áp rõ. Một nghiên cứu cho thấy đáp ứng của phụ nữ mang thai đối với thử nghiệm nằm ngửa trước phẫu thuật tức đặt bệnh nhân vào tư thế nằm ngửa có khả năng gây chèn ép động mạch – tĩnh mạch chủ dự đoán sự xuất hiện tụt huyết áp có triệu chứng, cần ephedrine, và giảm huyết áp tâm thu dưới 80 mm Hg trong quá trình gây tê tủy sống cho sinh nghiệm stress test nằm ngửa được xem là dương tính nếu nó liên quan đến 1 sự gia tăng nhịp tim mẹ lớn hơn 10 nhịp, 2 giảm huyết áp tâm thu hơn 15 mm Hg, hoặc 3 dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến tư thế nằm ngửa ví dụ buồn nôn, chóng mặt. Những nhà nghiên cứu thấy rằng stress test trước phẫu thuật có độ nhạy 69% và độ đặc hiệu 92% trong việc xác định những phụ nữ sẽ có hạ huyết áp có triệu chứng. Các nhà nghiên cứu cũng đã sử dụng các phương pháp khác, bao gồm đánh giá biến đổi nhịp tim và đo sức cản mạch hệ thống không xâm lấn trong nỗ lực xác định các nguy cơ gây tê trục thần kinh tụt huyết áp mổ lấy thai. Cho đến nay, dự đoán những sản phụ nào sẽ có tụt huyết áp sau gây tê trục thần kinh để mổ lấy thai chưa được chứng minh khả thi trên lâm sàng và có thể sẽ cần nhiều nghiên cứu phức tạp hơn nữa với các phương pháp khác nhau. Dự đoán như vậy có khả năng là thách thức vì rất nhiều các yếu tố kiểm soát tự động, sinh lý, thay đổi nội tiết tố và đáp ứng huyết động xảy ra trong thai kỳ. Phòng ngừa và xử trí tụt huyết áp thuốc vận mạch lý tưởng cho mổ lấy thai Một số chiến lược có thể làm giảm tụt huyết áp sau gây tê tủy sống mổ lấy thai, bao gồm truyền dịch, dùng thuốc vận mạch, giảm liều thuốc tê, nâng cao chân hoặc băng ép, và dịch chuyển tử cung sang trái. Trong tụt huyết áp do gây tê tủy sống, theo lý thuyết giảm tiền tải đề xuất ba cách để ngừa tụt huyết áp 1 truyền dịch keo hoặc tinh thể để bù cho máu tĩnh mạch bị nghẽn ở chi dưới. Tuy nhiên, những nghiên cứu từ bù dịch trước không hỗ trợ cho chiến lược này. Bù dịch trước cho bệnh nhân có thể gây ra tình trạng pha loãng máu, giảm độ nhớt của máu làm tăng tạm thời cung lương tim. Hơn nữa dịch tinh thể lại tái phân bố nhanh ra khoang ngoại mạch và cuối cùng tụt huyết áp cũng xảy ra do giảm sức cản mạch hệ thống bằng cách pha loãng máu. Bù dịch trước với dịch keo có thể hiệu quả hơn bù dịch tinh thể. Thời gian cho dịch bù trước so với bù đồng thời dường như không ảnh hưởng đến tỷ lệ tụt huyết áp do tê tủy sống. Mặc dù những phát hiện này có một số mức độ phù hợp với lâm sàng, nhưng không có chế độ bù dịch nào hiệu quả 100% trong việc ngăn ngừa tụt huyết áp do tê tủy sống. Trong thực hành hiện tại, một số bs gây mê cho dịch tinh thể truyền nhanh cùng lúc khoảng 15 mL / kg cho các sản phụ khỏe mạnh trải qua mổ lấy thai chủ động với gây tê tủy sống. Những sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp ví dụ tiền sử có hội chứng tụt huyết áp nằm ngửa hoặc có nguy cơ cao cho tác dụng phụ của tụt huyết áp ví dụ, bệnh cơ tim phì đại nhận bù dịch trước với dung dịch keo 500 mL. Vì vậy, không nên lãng phí thời gian quý báu để truyền một lượng dịch được xác định trước cho mẹ, đặc biệt trong điều kiện cấp cứu.2 Băng ép chi dưới đã được thử nhưng tương đối không hiệu quả. 3 Trong gây tê sản khoa, tụt huyết áp sau tê tủy sống được quy cho chèn ép động, tĩnh mạch chủ, giảm tiền tải và giảm cung lượng tim. Dịch chuyển tử cung sang bên trái theo truyền thống được ủng hộ để giảm chèn ép tĩnh mạch chủ dưới. Tuy nhiên, những phát hiện gần đây bằng cách sử dụng siêu âm tĩnh mạch đùi cho thấy chèn ép tĩnh mạch chủ chỉ xảy ra ở khoảng 30% phụ nữ nằm ngửa. Mặc dù dịch chuyển tử cung được sử dụng rộng rãi, nhưng nó không đáng tin cậy để ngăn ngừa tụt huyết áp sau gây tê tủy sống. Hiện tại cho thấy có giới hạn bằng chứng để hỗ trợ hoặc bác bỏ giá trị của việc sử dụng nghiêng hoặc gập bàn. Do đó, rõ ràng là các liệu pháp chủ yếu dựa trên khái niệm tiền tải và giảm cung lượng tim không đáng tin cậy để ngăn ngừa hạ huyết áp sau tê tủy sống. Việc sử dụng liều thấp thuốc tê để gây tê tủy sống có liên quan đến tỷ lệ tụt huyết áp thấp hơn, đặc biệt là khi so sánh liều cao và liều thấp vd, hyperbaric bupivacaine 6,5 mg so với 9,5 mg, hoặc 3,75 mg so với 9 mg; và bupivacaine plain 5 mg so với 10 mg kết hợp với fentanyl 25 µg .Tuy nhiên, nếu sử dụng liều thấp thuốc tê tủy sống ví dụ bupivacaine ≤ 8 mg sẽ có nhiều khả năng cần bổ sung thuốc giảm đau trong phẫu thuật hoặc chuyển đổi sang gây mê toàn diện. Liều thuốc tê tối ưu có khả năng bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố, bao gồm yếu tố kỹ thuật ví dụ đúng liều, mức tiêm để chọc kim, sử dụng đồng thời opioid, tư thế bệnh nhân trong và sau gây tê và các yếu tố khác ví dụ độ nhạy di truyền, bệnh nhân kỳ vọng, sự khác biệt trong kỹ thuật phẫu thuật; những yếu tố thường không được kiểm soát trong các nghiên cứu về liều thuốc tê. Các Bs gây mê khi cho một liều trung gian hay liều thấp thuốc tê nên xem xét sử dụng một kỹ thuật dựa trên catheter gây tê tủy sống liên tục hoặc CSE để bổ sung thuốc tê qua catheter khi cần thiết. Hiện nay, tụt huyết áp sau gây tê tủy sống được cho là giảm sức cản mạch hệ thống; cung lượng tim vận mạch lý tưởng để duy trì tưới máu tử cung là một lĩnh vực được nghiên cứu mạnh mẽ trong nhiều thập kỷ. Tuần hoàn tử cung không mang thai tự động điều chỉnh, co hoặc dãn mạch luân phiên để đáp ứng với các kích thích khác nhau. Ngược lại, tử cung mang thai không tự điều chỉnh và ít có khả năng co mạch, làm cho nó phụ thuộc trực tiếp vào áp lực tưới máu tử cung và tỷ lệ nghịch đối với sức cản mạch máu tử cung. Do đó, tưới máu tử cung nhau phụ thuộc vào cung lượng tim hơn là huyết áp. Robson và cộng sự chứng minh sự hiện diện của mối tương quan giữa giảm cung lượng tim mẹ và nhiễm toan thai nhi trong sinh mổ dưới gây tê tủy sống, nhưng không có mối tương quan giữa hạ huyết áp của mẹ và nhiễm toan thai nhi. Các nghiên cứu cho thấy cung lượng tim, tần số tim và thể tích nhát bóp của mẹ tăng lên trong 15 phút đầu tiên sau gây tê tủy sống. Sự co mạch bù trừ ban đầu ở các chi trên và sự tái phân phối lại máu từ giường mạch máu từ chậm đến nhanh có thể là lý do cho sự gia tăng cung lượng tim. Các bác sĩ lâm sàng chỉ dựa vào theo dõi HA có thể không đánh giá đúng điều này. Dựa trên sự hiểu biết về thay đổi sinh lý xảy ra sau gây tê tủy sống, và những tiến bộ quan trọng đạt được trong việc thực hiện ngăn ngừa tụt huyết áp trong tê tủy sống mổ lấy thai. Có một sự thay đổi mô hình từ lý thuyết giảm tiền tải sang giảm hậu tải như là cơ chế chính của tụt huyết áp do gây tê tủy sống. Trong tình huống này, một thuốc chủ vận α tác dụng nhanh như phenylephrine là lựa chọn tốt nhất trong gây tê tủy sống sản khoa để khôi phục lại huyết động học cơ sở. Khi so sánh với ephedrine, nó cho thấy Dễ chuẩn độ Khởi phát nhanh Hiệu quả hơn trong việc tăng sức cản mạch hệ thống Ít gây ra nhịp tim nhanh và tăng huyết áp ở mẹ nhưng gây ra nhịp tim chậm hơn Cải thiện độ pH của thai nhi Ngân Kee et al. 2009 Phenylephrine có thể cho bolus hoặc truyền. Một chiến lược bolus dự phòng đã được chứng minh là vượt trội so với chiến lược bolus điều trị liên quan đến tỷ lệ hạ huyết áp, buồn nôn và nôn. Hiện tại được khuyên là nên sử dụng kỹ thuật bolus cho tất cả các trường hợp mổ lấy thai cấp cứu. Chỉ xem xét truyền phenylephrine cho mổ lấy thai chủ động, và nếu được đào tạo về thiết bị và kỹ thuật. Truyền phenylephrine dự phòng Các nghiên cứu tìm liều ban đầu cho thấy 50 µg / phút là điểm khởi đầu thích hợp để truyền phenylephrine dự phòng. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng 25µg / phút giúp kiểm soát huyết áp với giảm khả năng làm nhịp tim chậm. Mục đích là để giảm thiểu nhịp tim chậm của mẹ trong khi có đủ tác dụng vận mạch. Tốc độ tiêm truyền nên được chuẩn độ để duy trì huyết áp tâm thu của mẹ SBP gần với huyết áp tâm thu cơ bản để giảm thiểu buồn nôn, nôn và nhiễm toan thai nhi. Bolus phenylephrine dự phòng Cho liều tiêm dự phòng 50-100µg cần để duy trì huyết áp > 100mmHg hoặc > 80% huyết áp cơ bản Theo truyền thống, ephedrine được sử dụng để phòng ngừa và điều trị tụt huyết áp liên quan đến gây tê trục thần kinh vì sợ rằng các chất chủ vận alpha-adrenergic thuần túy sẽ giảm lưu lượng máu tử cung. Tuy nhiên, phenylephrine có hiệu quả tương đương hay cao hơn so với ephedrine trong phòng ngừa và điều trị tụt huyết áp, và nó ít có khả năng làm giảm pH máu động mạch cuống rốn và kiềm dư. Phenylephrine qua nhau thai ít hơn ephedrine; có lẽ, ephedrine góp phần kích thích sự chuyển hóa ở thai nhi, dẫn đến pH thấp và kiềm dư hơn phenylephrine Ephedrine bolus tĩnh mạch 5 – 10 mg, or truyền tĩnh mạch 1 to 5 mg/phút. Dịch truyền chỉ được cho để thay thế thể tích ở những bệnh nhân có giảm thể tích. Vì nhịp tim chậm được xác định như là triệu chứng báo trước ngưng tim trong gây tê tủy sống, epinephrine 0,1-0,2 mg nên được cân nhắc sử dụng sớm trong điều trị nhịp tim chậm nặng, đặc biệt nếu liều atropine thông thường không hiệu quả. Một số nhà nghiên cứu đề nghị dùng norepinephrine vì có đặc tính của một thuốc vận mạch lý tưởng để ngăn ngừa và điều trị tụt huyết áp, nhưng bằng chứng hiện tại giới hạn. Trong một thử nghiệm, bệnh nhân nhận norepinephrine có nhịp tim và cung lượng tim cao hơn so với phenylephrine. Tỷ lệ buồn nôn và nôn không khác nhau. Sử dụng norepinephrine có liên quan đến nồng độ catecholamine trong động mạch rốn và huyết tương thấp hơn và hàm lượng oxy và pH tĩnh mạch rốn cao hơn, có khả năng cho thấy việc cung cấp oxy trong tử cung cao hơn; sự khác biệt tuyệt đối là nhỏ hàm lượng oxy phenylephrine, 11,8 ml / dl; hàm lượng oxy norepinephrine, 12,7 ml / dl; P = 0,047. Trong một nghiên cứu về tụt huyết áp sau gây tê tủy sống mổ lấy thai, norepinephrine 8 µg tương đương với phenylephrine 100 µg trong điều trị giai đoạn đầu tụt huyết áp. Cân nhắc tiêu chuẩn có hiệu quả cao hiện cótruyền phenylephrine, tích lũy thêm bằng chứng là cần thiết trước khi norepinephrine trở thành một tiêu chuẩn mới. Ondansetron Trong 10 năm qua, hơn 150 nghiên cứu được công bố mô tả tác dụng của ondansetron trong việc ngăn ngừa tụt huyết áp trong gây tê tủy sống, cũng như nhịp tim chậm. Cơ chế hoạt động của ondansetron được quy cho là phong bế các thụ thể serotonin 5-HT3, dẫn đến sự ngừng phản xạ Bezold-Jarisch ức chế tim từ hóa thụ thể. Phản xạ xuất hiện như một phản ứng nghịch đối với việc tụt huyết áp đột ngột, làm suy giảm thêm các cơ chế bù trừ của hệ tuần hoàn. Một phân tích gộp 13 thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát của Tubog và cộng sự đã chỉ ra rằng tỷ lệ tụt huyết áp giảm trung bình 36% từ 12% đến 73%, trong khi đó tỷ lệ nhịp tim chậm giảm 69%. Ondansetron cho tiêm tĩnh mạch 5 phút trước khi bắt đầu tê tủy sống, với liều thay đổi từ 2 đến 26 mg. Mặc dù những kết quả này ủng hộ giả thuyết về tác dụng tích cực của ondansetron trong phòng ngừa tụt huyết áp gây ra bởi gây tê tủy sống, nhưng do không có sự đồng nhất về mẫu, hỗn hợp thuốc tê , kết quả và liều áp dụng của ondansetron, nên vẫn còn quá sớm để đề xuất sử dụng thường quy trong gây tê tủy sống sản khoa mổ lấy thai. Một yếu tố hạn chế cho sử dụng thường quy thực tế là cũng có những nghiên cứu không chứng minh được hiệu quả của ondansetron trong phòng ngừa tụt huyết áp Bổ sung oxygen Trong khi bổ sung oxy thường được áp dụng thường quy trong mổ lấy thai, bằng chứng hỗ trợ cải thiện bà mẹ và kết quả ở trẻ sơ sinh thiếu, và một số gợi ý nó có thể gây hại bằng cách thúc đẩy tạo ra các gốc tự do và peroxy hóa lipid. Một thử nghiệm 80% so với 30% cho oxy trong thời gian mổ lấy thai không ngăn ngừa được nhiễm trùng vết mổ hoặc viêm nội mạc tử cung. Một phân tích gộp của 11 thử nghiệm bổ sung oxy không tìm thấy lợi ích cho việc mất bão hòa ở mẹ và điểm số Apgar ở trẻ sơ sinh. Không có bằng chứng thuyết phục về tác hại được xác định, mặc dù các dấu hiệu của các gốc tự do cao hơn ở mẹ và trẻ sơ sinh được đo khi được cho bổ sung oxy; ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này thì không rõ ràng. Dữ liệu thiếu về lợi ích hoặc tác hại của bổ sung oxy ở sản phụ có tình trạng bệnh tật ví dụ, tiền sản giật, béo phì, chuyển dạ với tim thai không an tâm hoặc hồi sức trong tử cung. Về mặt lý thuyết, những trẻ sơ sinh này có thể tăng nguy cơ bị tổn thương tăng oxy máu do peroxid hóa lipid lớn hơn từ chấn thương do tái tưới máu thiếu máu. Bằng chứng sẵn có cho thấy rằng oxy bổ sung thường quy cho sinh mổ ở sản phụ khỏe mạnh với gây tê trục thần kinh không có lợi ích, và việc loại bỏ nó có thể cải thiện sự thoải mái cho sản phụ. Oxytocine Xử trí tích cực giai đoạn ba của chuyển dạ làm giảm nguy cơ băng huyết sau sinh. Các nghiên cứu được công bố trong thập kỷ qua, chủ yếu bởi các bác sĩ gây mê đã xác định phương pháp an toàn sử dụng oxytocin giai đoạn ba của chuyển dạ hoạt động. Sự thúc đẩy để cung cấp liều oxytocin an toàn bắt nguồn từ các tác dụng phụ không phổ biến nhưng nghiêm trọng liên quan đến oxytocin, bao gồm các bất thường dẫn truyền tim phụ thuộc liều, co thắt mạch vành và hạ natri máu cấp tính nghiêm trọng dẫn đến co giật oxytocin có cấu trúc tương tự vasopressin . Hơn nữa, cho liều cao oxytocin là không cần thiết để đạt được lợi ích lâm sàng để quản lý hoạt động ở giai đoạn ba chuyển dạ. Một thử nghiệm ngẫu nhiên đã so sánh việc sử dụng oxytocin bằng cách sử dụng thuật toán quy tắc tam suất với một loại thuốc truyền oxytocin mở rộng 30 đơn vị trong 500 ml nước muối đẳng trương. Trong nhóm quy tắc tam suất, một liều oxytocin 3 đơn vị / 3 ml được bolus ngay sau mổ bắt em bé, tiếp theo tiêm lặp lại tùy chọn 3-đơn vị / 3 ml oxytocin sau 3 phút và 6 phút. Cách tiếp cận này dẫn đến trương lực tử cung ở 3, 6, 9 và 12 phút sau khi sinh không kém hơn so với điều trị chuẩn. Nhóm đối chứng nhận được nhiều oxytocin hơn, trong khi không có sự khác biệt về mất máu hoặc cần bổ sung thêm thuốc tăng trương lực tử cung. Oxytocin thường được dùng dưới dạng tiêm truyền do thời gian bán hủy ngắn từ 1 đến 5 phút, do đó, một phác đồ truyền liều thấp đã được nghiên cứu. George và cộng sự ước tính truyền oxytocin ED90 để trương lực tử cung đầy đủ ở phụ nữ trải qua sinh mổ chủ động là 0,3 đơn vị / phút 18 đơn vị / giờ . Phác đồ truyền oxytocin liều thấp cho thấy giảm tổng liều oxytocin mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ băng huyết sau sinh, thể tích mất máu ước tính, hoặc cho thêm thuốc tăng trương lực tử cung thứ hai. Thụ thể oxytocin mất nhạy cảm có thể giải thích nguy cơ cho băng huyết sau sinh từ mất trương lực tử cung trong sinh mổ sau khi tiếp xúc với oxytocin trong chuyển dạ. Test trong ống nghiệm liên quan đến các mảnh cơ tử cung ở người tiếp xúc 2 giờ trước với oxytocin so với kiểm soát chứng minh rằng chỉ số chuyển động tần số × biên độ dải không tiếp xúc với oxytocin là đáng kể lớn hơn ở những người được điều trị bằng oxytocin. Thử nghiệm trong ống nghiệm chưa xác định được thời gian nghỉ có hiệu quả hay không trong việc phục hồi nội mạc tử cung nhạy cảm . Do đó, cho nhiều oxytocin trong tình huống mất nhạy cảm có thể không đạt được tác dụng mong muốn làm tăng trương lực tử cung; trong những trường hợp này, một thuốc tăng trương lực tử cung hoạt động theo một cơ chế khác được chỉ định Giảm đau sau mổ Đau sau mổ lấy thai không đồng nhất trong biểu hiện và cường độ. Khả năng dự đoán mức độ nghiêm trọng và mạn tính đau sau mổ tùy thuộc mỗi cá nhân bằng cách xác định bệnh nhân có nguy cơ cao nhất cho đau nặng để chăm sóc phù hợp. Giảm đau đa phương thức là tiêu chuẩn vàng cho giảm đau sau mổ lấy thai. Một chiến lược phổ biến sử dụng morphin tê trục thần kinh, thuốc kháng viêm non- steroid và acetaminophen, và hạn chế dùng opioid toàn thân để điều trị cơn đau đột ngột tăng. Morphin trục thần kinh là thành phần hiệu quả nhất giảm đau sau mổ lấy thai. Dễ dàng quản lý, không tốn kém, và cung cấp giảm đau vượt trội và kéo dài cho tình trạng đau khi nghỉ và khi vận động. Tác dụng phụ liên quan đến morphin trục thần kinh bao gồm ngứa, buồn nôn, bí tiểu và ức chế hô hấp, mặc dù nguy cơ ức chế hô hấp thấp hơn đáng kể khi dùng morphin trục thần kinh hơn toàn dụng không mong muốn phụ thuộc vào liều lượng; liều cao tủy sống hơn 100 µg có tác dụng giảm đau kéo dài hơn 4,5 h so với morphin liều thấp 50 đến 100 µg, nhưng có liên quan đến tỷ lệ ngứa và nôn cao hơn. Điểm số đau và tiêu thụ bổ sung morphin toàn thân không khác nhau giữa liều cao và liều thấp. Các non steroid như ketorolac, diclofenac và ibuprofen là thành phần thiết yếu của thuốc giảm đau đa phương thức sau mổ lấy thai. Việc sử dụng các thuốc này có thể làm giảm dùng opioids lên tới 50%, đồng thời cũng giảm 30% các tác dụng phụ liên quan đến opioid như nôn mửa và an thần. Sự bài tiết ketorolac trong sữa mẹ là rất nhỏ, và theo Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ ketorolac có thể dùng ở các bà mẹ cho con bú. Chống chỉ định với NSAID bao gồm bệnh thận ví dụ, rối loạn chức năng thận trong tiền sản giật và tiền sử phẫu thuật cắt dạ dày Roux-en-Y. Việc sử dụng acetaminophen cũng cho thấy giảm tác dụng phụ của opioid lên tới 20% và có tác dụng cộng khi dùng đồng thời với NSAID. NSAID và acetaminophen thường quy sau sinh mổ làm giảm sử dụng bổ sung opioid nhiều hơn so với dùng acetaminophen bổ sung thêm khi cần. Phong bế thần kinh ngoại vi giảm đau sau mổ lấy thai Phong bế mặt phẳng cơ ngang bụng không vượt trội so với morphine tủy sống giảm đau sau mổ lấy thai. Trong một so sánh morphine tủy sống kết hợp với phong bế ropivacaine mặt phẳng cơ ngang bụng và morphin tủy sống kết hợp với block giả, không có sự khác biệt đau khi vận động lúc 24 giờ và không có sự khác biệt trong bổ sung liều opioid . Hai phân tích gộp kết luận phong bế mặt phẳng cơ ngang bụng không vượt trội so với morphine tủy sống, nhưng phong bế mặt phẳng cơ ngang bụng có thể hữu ích khi morphin tủy sống không phải là một phần của chiến lược quản lý đau ví dụ sinh mổ với gây mê toàn thân, chống chỉ định với morphin tủy sống. Xem xét các bằng chứng, việc bổ sung phong bế mặt phẳng cơ ngang bụng đối với tiêu chuẩn vàng giảm đau đa phương thức không cần thiết thường quy để có hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai. Phong bế cơ vuông thắt lưng có thể lợi thế hơn phong bế mặt phẳng cơ ngang bụng bởi vị trí nông hơn hình ảnh siêu âm dễ hơn, an toàn tốt hơn về lý thuyết. Trong hai thử nghiệm ngẫu nhiên, phong bế cơ vuông thắt lưng kết hợp với gây tê tủy sống đã tìm thấy vượt trội so với chỉ gây tê tủy sống, và hơn phong bế mặt phẳng cơ ngang bụng với gây tê tủy sống. Một hạn chế lớn của những thử nghiệm này là sự thiếu so sánh với morphine trong khoang dưới nhệnchế độ gây tê tủy sống không có morphine trong khoang dưới nhện, do đó, hiện tại không có kết luận nào có thể được đưa ra về tính ưu việt của phong bế theo tiêu chuẩn chăm sóc hiện tại. Kết luận Gây tê tủy sống mổ lấy thai có ưu điểm vượt trội so với gây mê toàn diện vì nó giảm thiểu nguy cơ đặt nội khí quản thất bại, thông khí và hít sặc. Tụt huyết áp sau tê tủy sống là kết quả của giảm sức cản mạch hệ thống và ứ máu tĩnh mạch. Trước đây, hạ huyết áp của mẹ và kết quả của thai nhi được cho là sẽ cải thiện bằng cách tránh chèn ép động mạch, tĩnh mạch chủ dịch chuyển tử cung sang trái và tăng thể tích máu, chẳng hạn như bằng cách truyền dịch để tăng hồi lưu tĩnh mạch, áp lực đổ đầy tim và cung lượng tim CO. Tuy nhiên, những kỹ thuật này đã được chứng minh là không hiệu quả, và hiện tại y văn đủ bằng chứng xác định việc bù dịch trước không vượt trội so với bù dịch cùng lúc bất kể loại dịch được sử dụng, không nên phí thời gian để bù dịch được xác định trước khi gây tê tủy sống, đặc biệt trong tình huống khẩn cấp. Việc dùng thuốc vận mạch là phương pháp đáng tin cậy nhất để chống lại tụt huyết áp gây ra bởi tê tủy sống, nên sử dụng kịp thời và hợp lý ngay trước khi huyết áp tụt để có kết quả tốt nhất cho mẹ và thai. Ngoài ra, các phương pháp quản lý đau sau mổ với sự phối hợp thuốc opioid trong khoang dưới nhện cũng góp phần cải thiện giúp sản phụ vận động sớm sau mổ, cải thiện chức năng phổi và oxy mô, cải thiện sức đề kháng insulin, giảm nguy cơ thuyên tắc tĩnh mạch và rút ngắn thời gian nằm viện cũng như tăng sự hài lòng cho sản phụ. Bs Nguyễn Vỹ Bài viết có sử dụng một số tài liệu tham khảo chính sau 1 1. Ivan Šklebar, Tonka Bujas and Dubravko Habek. SPINAL ANAESTHESIA-INDUCED HYPOTENSION IN OBSTETRICS PREVENTION AND THERAPY. Acta Clin Croat Suppl. 1 2019; 5890-95 2 2. Johnson E. Advances in understanding and management in obstetric anaesthesia’ The great myth of our times. Indian J Anaesth 2017;61285-8. 3 3. Grace Lim, Francesca L. Facco, Naveen Nathan, H. Waters, Cynthia A. Wong, Holger K. Eltzschig, A Review of the Impact of Obstetric Anesthesia on Maternal and Neonatal Outcomes. Anesthesiology 2018; XXX00–00 4 4. Choongun Ryu, MD, Geun Joo Choi, MD, PhD, Yong Hee Park, MD, PhD, Hyun Kang, MD, PhD, MPH. Vasopressors for the management of maternal hypotension during cesarean section underspinal anesthesia A Systematic review and network meta-analysis protocol. Medicine 2019 981 5 5. Kinsella;B. Carvalho; Dyer;R. Fernando;N. McDonnell; Mercier;A. Palanisamy; Sia;M. VandeVelde; International Consensus Statement on the Management of Hypotension With Vasopressors During Caesarean Section Under Spinal Anaesthesia. Anaesthesia. 2018;7371–92 6. Lawrence C. Tsen, MD, Brian T. Bateman, MD, MSc. Anesthesia for Cesarean Delivery. CHESTNUT’S OBSTETRIC ANESTHESIA PRINCIPLES AND PRACTICE, SIXTH EDITION.
Ngoài những trường hợp bắt buộc sinh mổ, nhiều chị em thường chọn phương pháp này với nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, việc gây tê tủy sống khi sinh mổ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe khiến nhiều chị em nhìn quy trình là muốn… đẻ thường. Nhiều chị em sau khi sinh một thời gian vẫn cảm thấy “ớn lạnh” khi nghĩ đến chuyện gây tê tủy sống. Hầu hết khi quyết định sinh mổ, sự lựa chọn phổ biến của các bác sĩ là gây tê tủy sống, một kỹ thuật bậc cao được tiến hành trong bệnh viện có trang thiết bị tốt nhất. Gây tê tủy sống đòi hỏi sự hợp tác tốt giữa bệnh nhân và bác sĩ gây tê. Sau khi tiêm thuốc gây tê, bệnh nhân vẫn có thể nghe, nhìn và có cảm giác đau khi chọc kim gây tê… Để chuẩn bị tốt nhất giúp tâm lý yên tâm hơn trong quá trình mổ lấy thai, sản phụ có thể tìm hiểu về phương pháp gây tê, vùng gây tê và cảm giác được mô tả khi gây tê như thế nào. Quy trình gây tê sinh mổ đòi hỏi kỹ thuật chính xác, nhanh chóng. Ảnh Ncbi Truyền dịch trước khi gây tê Trước khi gây tê, đội ngũ bác sĩ, y tá sẽ bắt đầu bước truyền dịch cho người mẹ. Việc truyền dịch có hai mục đích, một là bù lại lượng dịch mẹ còn thiếu trước mổ do nhịn ăn hay mất nước trong quá trình chuyển dạ, hai là bù vào khối lượng tuần hoàn do giãn mạch ngay sau khi thuốc tê ngấm vào người. Cần tiến hành truyền dịch trước khi gây tê. Ảnh Medicalopedia Theo dõi nhịp tim và huyết áp Sau khi bắt đầu truyền dịch vài phút, người mẹ sẽ được tiến hành các thao tác điện tim, huyết áp động mạch, nhịp thở, bão hòa oxy nhịp mạch mức giảm cảm giác vận động. Đo huyết áp, nhịp tim. Ảnh youtube Xác định vùng gây tê Để bắt đầu việc tiêm thuốc gây tê, sản phụ được các bác sĩ chọn một trong hai tư thế Một là ngồi, lưng cúi hình chữ C, cằm gập trước ngực, hai vòng tay bắt chéo phía trước, chân duỗi thẳng tránh ứ đọng máu tĩnh mạch giúp hạn chế việc hạ huyết áp. Tư thế ngồi cũng giúp bác sĩ dễ dàng chọc kim tiêm gây tê. Hai là nằm nghiêng co lưng hình con tôm. Các y tá thường giữ đầu gối và tay bệnh nhân không hoàn toàn song song với bàn mổ để các bác sĩ tiến hành bôi cồn xung quanh vùng xương đánh dấu vùng tiến hành chọc tiêm gây tê. Sát trùng vùng gây tê Trước khi chọc kim tiêm vào tủy sống, bác sĩ thường sát trùng vùng gây tê bằng nước sạch, sau đó sát trùng bằng cồn iod. Sau 2 lần sát trùng bằng cồn iod, sản phụ được sát trùng lượt cuối bằng cồn 70 độ để tránh kim tiêm mang theo cồn iod vào tủy sống. Tiến hành chọc kim gây tê Kỹ thuật chọc kim gây tê vào tủy sống cần đảm bảo vô trùng tuyệt đối nên mọi dụng cụ trước khi tiến hành đều cần được hấp vô trùng. Người gây tê phải đội mũ, mặc áo, đeo găng tay để tiến hành gây tê và mổ lấy thai. Khi tiến hành chọc gây tê tủy sống nên để đầu của bệnh nhân nằm ngửa ở tư thế trung gian để bác sĩ xác định vị trí chính xác vị trí chọc kim. Sau khi chọc kim tiêm vào vị trí chính xác, bác sĩ bắt đầu bơm thuốc tê từ từ, áp lực thấp để tránh thuốc tê vào tạo xoáy dịch ở ngay đầu trong của kim gây tê. Dụng cụ vô trùng khi tiến hành gây tê. Ảnh Youtube Xác định vùng gây tê. Ảnh Youtube Chọc kim và bơm thuốc gây tê. Ảnh Youtube Sau khi tiêm khoảng 10 - 15 phút sẽ tiến hành ca mổ. Ảnh Pinterest Sau khi bơm thuốc tê khoảng 15 phút, tỷ trọng của thuốc tê và tốc độ bơm thuốc tê, số lượng thuốc thể tích cùng liều lượng thuốc là yếu tố quyết định sự lan tỏa của thuốc tê trong tủy sống. Bộ Y tế khuyến cáo gây mê nội khí quản nhằm phòng tránh tử vong trong mổ lấy thai Bộ Y tế vừa có văn bản hướng dẫn các đơn vị Y tế trên toàn quốc nên sử dụng phương pháp gây mê nội ... Xúc động những hình ảnh về nụ cười 'khoẻ' của bệnh nhi trong ngày 1/6 Chiều nay 1/6, gần 400 bệnh nhân nhi đang điều trị tại Viện Huyết học - Truyền máu TW đã vui mừng tham gia ngày ...
quy trình gây tê tủy sống mổ lấy thai